Chú ý: Bài đăng và nhận xét không được vi phạm về Pháp luật và Văn hoá Việt Nam.
Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2009
Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2009
Mon ăn tinh thần
Vào một chiều thứ 7 những năm 1975-76 (không nhớ rõ ). Có 3 sv khồng tiền, không tình từ trường trở về nhà ở khu tập thể Ông Ích Khiêm.
Sau khi kiểm tra thực phẩm thấy có nồi cá kho, gồm 2 khúc . Tụi chúng quyết định nấu cơm, sau vài động tác đơn giản cơm đã cạn thì cũng vừa lúc đó cả khu tập thể xôn xao , tại câu lạc bộ quốc tế gần nhà có chiếu phim " Chiếc Sừng Rê" của Ba Lan lúc bấy giờ phim này đang rất được chuộng, nghe đồn phim này có cả những đoạn mát nữa.....
Làm thế nào bây giờ ?
cơm thì vừa cạn, giau hỏa thì rất hiếm và khó khăn. Sau một hồi suy đi tính lại cả bọn quết đinh ăn thức an trước , tắt bếp không đánh lên, đậy kín, về ăn cơm không trắc cơm cũng chín. Mới đầu ăn cá kho vã cũng hơi mặn, nhưng kèm một cốc nước bên canh cũng tạm ổn. Xong rồi lên đường thôi ! Khi cả 3 ra đến nơi loai hoai một lúc chui tọt qua rào, trước sự kinh ngạc của cả một bầy khán giả không vé. nhưng họ bì làm sao được đây là 3 bó củi của trường GT (Nghiêm, Kiếm, Hùng BN).
Vào trong Rap được nghe thông báo : vì lý do KT hôm nay chiếu phim (đi tìm Ngựa Trắng). phim được đề cử 7 giải Osca.
Không hiểu sao ? có thể phim nói về vấn đề quá cao siêu cũng có thể trình độ tui này lúc đó có hạn, nên xem mãi không hiểu gỉ ? mà cũng không thấy hay. Cuối cùng đang xem cũng phải bỏ về. Một phần là phím chán, hai phần là đói bụng. Về nhà bỏ cơm ra thì vẫn còn hạt gạo ...???
Đến bây giờ mình thấy phim đó được đề cử cũng đúng, vì xem cách đây hơn 30 năm, mặc dù không hiểu , thế mà vẫn nhớ hình ảnh một con ngựa trắng lang thang ngoài thảo nguyên !
Thứ Tư, 19 tháng 8, 2009
Chỉ vì cái tàu này
Ở Phan Thiết.
Hai bác này hơn 30 năm mới gặp lại nhau.
Hôm rồi cơ quan đi Bình Thuận nghỉ tiêu chuẩn hàng năm, anh giai có bà thị xã đồng nghiệp, cùng đi chơi chung. Buổi sáng ở Phan Thiết chưa kịp tỉnh vì đêm hồi hôm nhậu khuya đã nghe alu có người Phan Thiết chờ ngoài quán cafe, gặp nhau trách nhẹ ra ngoài này sao không thấy alu.
Mọi người nhìn ảnh chắc sẽ nhận ra nhau sau bao nhiêu năm?
Thứ Hai, 17 tháng 8, 2009
Franz Shubert
Nhà soạn nhạc người Áo Franz Schubert là nhân vật vĩ đại đầu tiên của nền âm nhạc Lãng mạn thế kỉ 19. Sinh ngày 31 tháng 1 năm 1797 và mất ngày 19 tháng 11 năm 1828. Trong cuộc đời ngắn ngủi chỉ có 31 năm của mình, Franz Schubert đã để lại một khối lượng các tác phẩm khổng lồ: 9 bản giao hưởng (bản giao hưởng số 7 bị thất lạc), khoảng 10 vở opera, 15 tứ tấu đàn dây, 8 Mass, gần 20 piano sonata, 500 tiểu phẩm cho nhiều nhạc cụ và hơn 600 lied. Điều này cho ta thấy ở Schubert một tài năng lỗi lạc, một sức sáng tạo thật phi thường và ta sẽ càng cảm phục thêm con người ông nếu như ta biết được rằng trong suốt cuộc đời mình, Schubert luôn phải sống trong tình trạng đói nghèo.
Rất kính phục Beethoven, khi biết được cái chết đã ở rất gần mình, Schubert có một ước muốn: “Hãy chôn tôi cạnh mộ Beethoven”. Ước muốn đó đã thành sự thực, mộ của Schubert được đặt cạnh mộ của Beethoven tại nghĩa trang Walhring, và sau đó là nghĩa trang Zentralfriedhof. Trên mộ của Schubert ghi dòng chữ: “Cái chết đã chôn vùi một tài năng tuyệt vời của nhân loại, và đó còn là một tài năng hứa hẹn hơn gấp nhiều lần”. Tiểu sử Franz Schubert
ST
Nghe Nana Mouskouri - trình bày bản Serenade
Làm "Phuoter"
Cuối tháng 6 vừa rồi cùng mấy ông bạn già thực hiện một chuyến "Phượt*" bằng ô tô từ Bắc vào miền Trung. Tại mỗi điểm dừng ghi lại được một số hình ảnh. Đương nhiên ảnh thì chụp được nhiều, chọn một số đưa lên để mọi người "du lịch" qua blog.
Ngày thứ nhất (23/6/2009)
Xuất phát từ Hà nội theo đường 6, chúng tôi đến Xuân mai, từ Xuân mai theo đường HCM thẳng tiến.
Ngày thứ 2 (24/6/2009): Theo quốc lộ 1 đi tiếp.
Ảnh được sắp xếp theo trình tự thời gian từ Bắc vào, khi qua các địa danh.
*Phượt là gì?
Xuất phát từ Hà nội theo đường 6, chúng tôi đến Xuân mai, từ Xuân mai theo đường HCM thẳng tiến.
Ngày thứ 2 (24/6/2009): Theo quốc lộ 1 đi tiếp.
Tấm bia (trước một hang đá) ghi danh sách thanh niên xung phong & bộ đội hy sinh trong hang do bị bom Mỹ lấp cửa hang, thời chiến tranh chống Mỹ, trên đường 20, Tây Trường Sơn (Quảng bình). Sau này hang được gọi là hang 8 cô.
Ảnh được sắp xếp theo trình tự thời gian từ Bắc vào, khi qua các địa danh.
*Phượt là gì?
Thứ Năm, 13 tháng 8, 2009
Cái ị
"Ở đời, có gì là thú nhất, mà lương thiện?
Sai à? Bạn có thể ngồi vào bàn ăn sau những lời mời thiết tha được không khi bụng ậm ạch tưởng chừng dạ dày đang lấn hết chỗ của gan phổi và xương cụt như bị nén cho chồn hẳn lại. Hẳn nhiên, khao khát lớn lao nhất, duy nhất, chi phối toàn bộ năng lực tư duy của bạn lúc đó phải là tìm nơi tự giải phóng mình lập tức. Cái đau đớn nếu có vào lúc ấy cũng là một khoái cảm huy hoàng.
Cái thú đó, cái khoái cảm đó hiển hiện, không hề của riêng ai. Thế mà nhiều năm tháng, nhiều đời người kế tiếp chẳng được nhòm nhỏ tới.
Bây giờ vẫy vùng ở chung cư đời mới, biệt thự, trang trại, cái thú đó mới được thỏa mãn dễ dàng. Nhưng được bao nhiêu người hân hoan vì hưởng thú này nhỉ?
Đừng đổ tội cho thời bao cấp vội. Tôi nghĩ chuyện thiếu trạm luân chuyển ngũ cốc tử tế là chuyện của nhiều đời người Việt từ trước đó. Chẳng qua cũng tội tại một chữ “nghèo”. Nghèo, nên mới phải giắt lưng từ bé những lời chỉ dạy sống sao cho phải. “Ăn hết nhiều chứ ở hết mấy, thêm bát thêm đũa chứ không thêm mâm, miếng ăn miếng nhục, ăn trông nồi…” Nghèo, bao nhiêu toan lo dồn lại đầu vào trong hai chữ đủ ăn, sức nào nghĩ chuyện đầu ra nữa. Tôi tin rằng, cùng sự thay đổi điều kiện kinh tế, những câu như thế này sẽ dần biến mất khỏi kí ức cộng đồng. Nhưng đến bao giờ?
Cũng vì nghĩ ăn hết nhiều ở hết mấy mà, cứ đi thử mà xem, rất ít nơi chốn trên đất nước Việt Nam, cái chốn để hưởng khoái cảm huy hoàng là ị được để tâm xây dựng.
Quê tôi, cửa ngõ Thủ đô, nơi xa gần thế nào cũng có người biết vì cuối huyện là chùa Hương Tích, điểm hành hương mỗi độ xuân về. Mà cứ như tôi nhớ thì chẳng mấy nhà có một nhà vệ sinh theo đúng nghĩa. Thế nên ai có là nổi danh. Ví như một nhà đất rộng, nhiều ao, làm cái cầu tre vắt vẻo ở cái ao tít cuối vườn và quây lại bằng lá chuối khô lướp tướp làm chỗ buồn vui, thế là chết danh ông Lâm Bõm. Còn thì dân làng có cái thú sau thú quận công. Thứ nhất quận công, thứ nhì ỉa đồng. Là dân thành phố về quê sơ tán, buổi đầu tôi không sao hiểu nổi làm thế nào người ta có thể nhịn mà chạy thốc cả cây số ra đồng. Sau thì hiểu, lại còn bị bọn trẻ cùng làng quyến rũ hưởng cái thú này. Đi học về, ăn chập ăn chuội là bổ qua nhà hàng xóm, theo nó đi bò. Nhà có làm nông đâu, mà bà tôi chiều, xin đâu được mấy mảnh xương bò, mua cho hai cái sọt nhỏ, chỉ việc bẻ đôi ba lá dong riềng lót đáy, thế là đủ lệ bộ của dân Cổ Nhuế một thời, sẵn sàng, trước kết quả dị hóa của loài nhai lại. Rồi đấy, nếu bụng có băn khoăn thảng thốt điều gì, tìm chỗ xa xa mà ghé xuống. Có lần tôi theo đứa bạn chui vào ruộng ngô nhà nó, thấy nó chổng mông không quần, chẳng lo ị, mà loay hoay nhặt nhạnh phân đạm chưa tan hết từ gốc ngô này bón sang gốc ngô kia, vừa làm vừa lảu bảu y như một bà già. Nó lại còn hái cho tôi một mớ quả đậu xanh trồng xen ngô, còn non, đang lên hạt, dặn về hấp cơm ngon lắm. Sau này, đôi lúc dừng giữa một trang sách ở chốn “công cộng” ngoài thành phố, những thân dáng gương mặt một thời lại trở về. Đứa bạn. Bà cụ dọn xong bếp núc tranh thủ ra đồng, vừa là để hưởng thú gần bằng thú quận công, vừa là để đảo qua ruộng rau mới cấy, đôi bắp chân còn dính vệt bùn mượt ở ruộng cần. Ông già hàng xóm về oang oang từ đầu ngõ khoe nhặt được trứng vịt ở bờ ruộng lúc đi ị. Tinh thần tham công tiếc việc này đã mang lại nội hàm mới cho một hành động tầm thường. Người quê tôi thay vì nói “đi ị” lại nói đi đồng. Bây giờ, nhiều người trẻ đã xây nhà kiểu phố giữa làng, nhưng ông già bà cả vẫn ưa chuyện ra đồng hưởng thú gió mơn mông và nhân thể nhúc nhắc đôi ba việc. Bạn thân mến, chưa từng sống qua không thể hiểu đời sống giản đơn tuyệt diệu đến mức nào, tuổi nhỏ thần tiên đến độ nào nếu có chút hương đồng gió nội cỏ rơm sông nước để mà thương nhớ. Biết nhớ chẳng hẳn lúc nào cũng là gánh nặng, và không cần chọn lựa không gian thời gian đâu.
Ở Hà Nội, trước khi nhà lắp ghép xuất hiện, trừ những khu tập thể nhà cấp thấp do các cơ quan xây dựng tạm, có mấy khu tập thể cũng phải tính là hoành tráng. “Quân khu Nam Đồng”, các gia đình bộ đội quần tụ. Khu tập thể nhà máy văn phòng phẩm Hồng Hà bang Cò ị, cũng khá nổi tiếng. Khu Kim Liên buổi đầu dành cho cán bộ nhỡ nhỡ. Khu tập thể đại học Dược, đại học Y, nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo ở dốc Thọ Lão. Khác nhau về dân trí, nhưng giống hệt nhau ở chỗ khu tập thể nào cũng chỉ có nhà vệ sinh công cộng. Đây đích thị là nơi mà mọi tưởng tượng về một xã hội bình quyền phải hướng tới. Ông trưởng khoa một đại học danh tiếng sẽ phải gặp bà cấp dưỡng của trường ở chốn này. Và liệu liệu, nếu ông lại vì một ý tưởng khoa học nào lơ đễnh không dọn sạch mặt bằng cảm khoái, thì ông chết với bà.
Giả dụ những nhà tập thể giữ nguyên mẫu như từ những trang văn học Xô-viết ra thì có lẽ cũng được. Dăm ba gia đình dùng chung dăm ba nhà vệ sinh, sạch sẽ và vui vẻ. Đấy là kinh nghiệm của tôi hồi còn bé tí. Cả hành lang tập thể thênh thang sau chiến tranh đánh phá chỉ loáng thoáng đôi ba người, phần lớn độc thân, nhà vệ sinh công cộng thành nơi chất củi cho các gia đình. Nhưng chẳng được bao ngày, người ùn về, quy mô của các gia đình phình, nỗi khổ hàng ngày bảnh mắt ra đã mục sở thị là phải chờ nhau trước cửa nhà vệ sinh công cộng, là chuyện mất nước, là chuyện bà lao công làm reo. Nỗi khổ đó thảm hại đến mức làm người ta không còn có thể thương nhau, chỉ muốn chèn lấn mà vượt trước và sẵn lòng nổi giận. Thảm hại hơn cả sự thảm hại đó, người ta đâm trơ ra, mất khả năng thẹn thùng. Để vượt nỗi thẹn thùng thê thảm này, nhiều quý vị đã phải tập một thói quen mà các nhà y học không thể nào dung thứ: đọc sách.
Dù sao thì đó cũng còn là nhà vệ sinh ở các khu tập thể cỡ. Phải đi tới những khu tập thể của các trường đại học thì mới hình dung hết sự khủng khiếp. Ví dụ trường đại học sư phạm Hà Nội I một thời. Cả mấy cái nhà bốn tầng đầy ự sinh viên của những mấy khoa, hàng ngày rồng rắn ra một dãy nhà xập xệ ngoài cánh đồng. Dân nội trú khoa tôi chiếm ngôi nhà cuối cùng trong dãy kí túc xá, được đánh dấu là A6, và, khác thói thích thi vị hóa cuộc đời bằng những hình dung từ long lanh hay thấy ở dân học Văn chương, gọi luôn trạm luân chuyển ngũ cốc là A7. Sau này, ngoài cánh đồng, nhà trường còn cho xây thêm dăm ba ngôi nhà đơn giản, bằng vốn của UNICEF hay theo thiết kế phổ biến của Unicef cho các công trình tài trợ ở mấy nước nghèo nghèo thì không biết, nhưng dân sư phạm thì gọi luôn là nhà Unicef, và đó là giảng đường của sinh viên chúng tôi khoa Văn, Toán, Tâm Lí mấy năm cuối. Buổi sáng tới giảng đường mà gặp mặt nam thanh nữ tú đi ngược lại ở đoạn đường khó nói đó là biết ngay chúng mày ở đâu ra: nhà vệ sinh công cộng. Khốn khổ cho tôi, dân Hà Nội học ngoại trú, đâu có biết cái tên gọi đơn giản của nơi chốn này, nên lần bảo vệ tốt nghiệp được 10 điểm được coi là sự kiện chấn động toàn khoa, vì trước đó mười mấy năm mới có điểm 10 như thế, nhận lời chúc của bạn bè rằng ảnh mày được treo cả trong A7, mặt thì ngơ ngác nhưng lòng vẫn thầm hơn hớn.
Đến thời Hà Nội tự hào vì hàng loạt khu lắp ghép ra đời, bi hài kịch này lại có một version khác. Nào phải về nơi khỉ ho cò gáy người sống chung cùng gia súc, thế mà vào nhiều nhà lắp ghép, biết ý mình muốn đi toilette, chủ nhà lại nhanh nhảu chạy ra mở cửa, cầm roi đuổi con lợn tạ vào một xó và trân trọng chuyển giao roi cho mình, chẳng nói cũng biết là roi ra roi, vì dùng để tác động vào bì lợn. Nhà khác thì chuồng gà ngự bên trên toilette, gà tí tách mổ nhằn ngay trên lưng. Trời ơi, cứ thử hình dung một mối tình đang chớm nở mà chàng nàng lại phải trao nhau roi chốn đó, thì mối tình đó sẽ nở tiếp ra sao? Mới đây, đọc Phế đô của Giả Bình Ao, lại gặp những chuyện xếp hàng tè ị, chẳng biết là Việt Nam hóa ở Tàu hay Tàu hóa ở ta. Chi tiết này thì Tàu đặc: một nhân vật trong đó, bà mẹ, khuyên con nên mua cái bô làm quà cưới cho bạn, rằng dùng chung nhau một cái bô là quan trọng lắm, là vợ chồng khó bỏ nhau lắm. Ừ, phải duyên thì có thể thế, nhưng nếu mới chỉ phải lòng mặt mà phải đối mặt với sự thảm hại cùng cực của đời sống, thì duyên bén làm sao!
Trở về với Mẹ ta thôi. Về với phố. Ô nhiễm môi trường ở phố cổ chẳng phải là chuyện tìm ra châu Mỹ thời nay. Qua lại nhà bạn bè ở khu phố đó mấy chục năm, tôi đã hứng chí viết hẳn một truyện ngắn: “Nhà ở phố”. Nhờ cái truyện này, và nhờ một đoạn tiểu thuyết có động chạm lại nỗi khổ tè ị, đi đâu tôi cũng hay được bạn đọc nhận là đồng hương phố. Này, nhưng mà tình thật, ở phố cổ còn sạch sẽ gấp vạn lần ở khu tập thể xuống cấp lúc cơ quan chủ quản buông không quản. Tưởng chuyện là của thời qua, về Việt Nam, lang thang qua những ngõ ngách phố phường, qua những khu tập thể cũ ních cứng người, rồi đọc báo hàng ngày trên mạng, mới biết bi hài kịch nhà vệ sinh công cộng vẫn đang tiếp diễn. Để ý mà xem, cứ nơi đâu quy mô đời sống cá nhân được nén kĩ hơn trong một chữ “riêng”, ở đó ngày sống còn đỡ đỡ.
Cứ cho là quá đà suy diễn, nhưng tôi vẫn tin rằng một trong những căn nguyên hun đúc tinh thần cam chịu và ý tứ thái quá của dân mình là do nhu cầu tè ị không được thỏa mãn một cách tự nhiên. Chứ còn gì nữa, kiềm chế được nhu cầu rất người này đòi hỏi nhiều ý chí.
Muốn hỏi: Đến bao giờ, người Việt mình ai cũng như ai được bình đẳng trong bữa ăn, trong chốn ị? Và thực hiện được nhu cầu rất con người của mình trong những điều kiện xứng đáng với con người?
Lê Minh Hà
Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2009
Lại nói về "Sự trung thực"
Albert Einstein đã cảnh báo rằng nếu không suy nghĩ độc lập thì người ta có thể trở thành một cái máy khả dụng, nhưng không thể trở thành một con người với đầy đủ phẩm giá. Thế nên, suy cho cùng, nếu sống trung thực thì ta sẽ được là …ta. Thế thôi, ta sẽ là một con người có tư duy độc lập với đầy đủ phẩm giá.
Thế nhưng bạn sẽ hỏi, làm sao để bạn biết suy nghĩ độc lập và biết sống trung thực?
Câu hỏi đó liên quan đến vai trò của giáo dục.
Vai trò của giáo dục ở đâu khi đối diện với những con số nhức nhói sau: 89% sinh viên từng sử dụng tài liệu trong phòng thi, 85% từng quay cóp, 42% sao chép luận văn, đồ án, 36% từng xin hoặc mua điểm (theo một khảo sát, điều tra của Bộ Giáo dục – Đào tạo trên 1.827 sinh viên ).
Giáo dục sai ở đâu?
Câu trả lời của tôi đối với câu hỏi trên là: Giáo dục sai ở chỗ đã giả thuyết rằng chỉ có một đáp án đúng cho mọi vấn đề.
Học sinh từ nhỏ thường được dạy là chỉ có một đáp án đúng, hoặc ở trong sách giáo khoa, hoặc do thầy nói thế thì phải thế. “Cãi thầy thì núi đè” vì thầy luôn luôn đúng.
Lớn lên khi đi thi đại học thì học sinh được đưa vào “lò luyện thi” để học nằm lòng cách giải toán hay cách làm văn theo mẫu.
Học sinh từ nhỏ thường được dạy là chỉ có một đáp án đúng, hoặc ở trong sách giáo khoa, hoặc do thầy nói thế thì phải thế.
Nhiều người đọc đến đây có lẽ sẽ than: Biết rồi khổ lắm nói mãi.
Tuy nhiên, mục đích của tôi không phải là tường trình hậu quả của cách giáo dục tư duy một chiều. Những con số điều tra nêu trên đã phần nào phản ánh hiện trạng tiêu cực trong giáo dục hiện nay. Bên cạnh đó có lẽ đã có nhiều bài viết về gian lận trong thi cử.
Bài viết này nhằm đặt lại vấn đề đối với giả thuyết ban đầu của cách giáo dục tư duy một chiều: chỉ có một đáp án đúng trong mọi vấn đề.
Liệu có luôn có một đáp án đúng chăng?
Nếu có thì có lẽ học sinh không cần phải suy nghĩ nhiều nữa. Họ chỉ cần học theo đáp án của sách giáo khoa, của giáo sư, v.v.
Nếu không thì học sinh Việt Nam đang bị “ép” phải suy nghĩ một chiều. Họ không có sự lựa chọn nào khác. Bất chợt tôi nhớ tới lời than của Chí Phèo: “Tôi muốn lương thiện, ai cho tôi lương thiện?”
Giả sử nếu có hai cách nghĩ về một vấn đề và cô học sinh A muốn chọn cách nghĩ B. Tuy nhiên đáp án của ngành giáo dục là A. Trong trường hợp đó, có lẽ cô học sinh ấy sẽ than, tôi muốn trung thực, ai cho tôi trung thực?
Thế nhưng bạn sẽ hỏi, làm sao để bạn biết suy nghĩ độc lập và biết sống trung thực?
Câu hỏi đó liên quan đến vai trò của giáo dục.
Vai trò của giáo dục ở đâu khi đối diện với những con số nhức nhói sau: 89% sinh viên từng sử dụng tài liệu trong phòng thi, 85% từng quay cóp, 42% sao chép luận văn, đồ án, 36% từng xin hoặc mua điểm (theo một khảo sát, điều tra của Bộ Giáo dục – Đào tạo trên 1.827 sinh viên ).
Giáo dục sai ở đâu?
Câu trả lời của tôi đối với câu hỏi trên là: Giáo dục sai ở chỗ đã giả thuyết rằng chỉ có một đáp án đúng cho mọi vấn đề.
Học sinh từ nhỏ thường được dạy là chỉ có một đáp án đúng, hoặc ở trong sách giáo khoa, hoặc do thầy nói thế thì phải thế. “Cãi thầy thì núi đè” vì thầy luôn luôn đúng.
Lớn lên khi đi thi đại học thì học sinh được đưa vào “lò luyện thi” để học nằm lòng cách giải toán hay cách làm văn theo mẫu.
Học sinh từ nhỏ thường được dạy là chỉ có một đáp án đúng, hoặc ở trong sách giáo khoa, hoặc do thầy nói thế thì phải thế.
Nhiều người đọc đến đây có lẽ sẽ than: Biết rồi khổ lắm nói mãi.
Tuy nhiên, mục đích của tôi không phải là tường trình hậu quả của cách giáo dục tư duy một chiều. Những con số điều tra nêu trên đã phần nào phản ánh hiện trạng tiêu cực trong giáo dục hiện nay. Bên cạnh đó có lẽ đã có nhiều bài viết về gian lận trong thi cử.
Bài viết này nhằm đặt lại vấn đề đối với giả thuyết ban đầu của cách giáo dục tư duy một chiều: chỉ có một đáp án đúng trong mọi vấn đề.
Liệu có luôn có một đáp án đúng chăng?
Nếu có thì có lẽ học sinh không cần phải suy nghĩ nhiều nữa. Họ chỉ cần học theo đáp án của sách giáo khoa, của giáo sư, v.v.
Nếu không thì học sinh Việt Nam đang bị “ép” phải suy nghĩ một chiều. Họ không có sự lựa chọn nào khác. Bất chợt tôi nhớ tới lời than của Chí Phèo: “Tôi muốn lương thiện, ai cho tôi lương thiện?”
Giả sử nếu có hai cách nghĩ về một vấn đề và cô học sinh A muốn chọn cách nghĩ B. Tuy nhiên đáp án của ngành giáo dục là A. Trong trường hợp đó, có lẽ cô học sinh ấy sẽ than, tôi muốn trung thực, ai cho tôi trung thực?
Ba người thầy
Khi Hasan, một nhà hiền triết Hồi giáo sắp qua đời, có người hỏi ông: "Thưa Hasan, ai là thầy của ngài?"
Hasan đáp: "Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.
Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời: "Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm."
Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.
Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: "Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!"
Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng bằng hành động.
Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến dã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: "Con tự thắp cây nến này phải không?" Đứa bé đáp: "Thưa phải." Đoạn ta hỏi: "Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?"
Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: "Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?"
Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình.
Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.
Sưu tầm...
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)